Lịch sử ra đời:
Ngày nay mã vạch đã ứng dụng hầu như toàn bộ trong nền kinh tế hiện đại và
tưởng rằng nó đã tồn tại lâu đời, nhưng thật sự nó chỉ bắt đầu được sử dụng
từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Vào năm 1974, lần đầu tiên việc thu thập
thông tin sản phẩm được vận hành tự động bằng máy quét mã vạch.
Nhưng về ý tưởng thì đã có rất lâu và là một quá trình lâu dài để phát triển
trước khi được ứng dụng rộng rãi. Vào năm 1932, Wallace Flint đã đề xuất ý
tưởng về hệ thống kiểm kê tự động. Mặc dù khái niệm đầu tiên không khà thi,
nhưng ông đã dành hết sự nghiệp của mình để phát triển ý tưởng về hệ thống
mã vạch. Có một điều thú vị rằng, Flint chính là Phó chủ tịch hiệp hội lương
thực Mỹ trong suốt 40 năm và là người tạo tiền đề phát triển UPC nổi tiếng
sau này.
Trong 30 năm tiếp theo từ ý tưởng ban đầu của Flint, nhiều định dạng mã vạch
đã được tạo ra như mã mắt bò (bull-eyes code), mã số (numeral code) và một
số mã khác. Trong công nghệ này, những ngành phân phối thực phẩm đã tiếp cận
sớm hơn là của công nghiệp.
Những phương thức mã hóa đầu tiên:
Vào năm 1948, một chủ cửa hàng nhỏ đã đến Học viện Công nghệ Drexel
Philadelphia (tiền thân của Đại học Công nghệ Drexel) đề nghị nghiên cứu
phương thức đọc thông tin sản phẩm tự động khi đang kiểm kê. Hai sinh viên
tốt nghiệp Bernard Silver và Nornam Joseph Woodland đã tham gia phát triển
giải pháp này.
Woodland dự định sử dụng mực in ít nhạy với tia cực tím để đọc các vạch mã
hóa. Nguyên mẫu này hoạt động được nhưng không được chấp nhận vì tính bất
tiện và đắt đỏ.
Vào ngày 29 tháng 10 năm 1949, Woodland và Silver đã thành công khi xây dựng
được nguyên mẫu mô phỏng bằng cách phân loại thông qua xác định mẫu trung
bình. Vào ngày 07 tháng 10 năm 1952, hai người đã được cấp bằng sáng chế (US
Pattern #2,612,994) cho bài viết “Thiết kế và nguyên lý đọc mã vạch”.
Vào những năm 60, các nỗ lực cải thiện hiệu suất nhờ sự ra đời của tia laser
và các chíp bán dẫn, hệ thống mã vạch càng được đưa vào thực tiễn.
Phiên bản thương mại hóa đầu tiên:
Ứng dụng mã vạch được thương mại hóa đầu tiên vào năm 1966 cho bán lẻ. Nhưng
để dành cho công nghiệp thì lại phát sinh vấn đề về định hình lại một số
tiêu chuẩn của hệ thống. Vào năm 1970, Logicon Inc đã phát triển được mã xác
định lương thực tổng quát (Universal Grocery Product Identification Code –
UGPIC). Monarch Making của Mỹ là công ty cung cấp thiết bị mã vạch trong bán
lẻ đầu tiên trong thị trường sử dụng mã UGPIC vào năm 1970, và để ứng dụng
trong công nghiệp là công ty Plessey Telecomunication của Anh cũng vào năm
1970.
Vào năm 1972, cửa hàng Kroger ở Cincinnati bắt đầu sử dụng mã mắt bò
(bull-eyes code). Trong thời gian này, một hội đồng được lập ra để lựa chọn
tiêu chuẩn sử dụng trong công nghiệp. IBM đã thiết kế mã UPC dựa trên UGPIC,
và đây trở thành mã nổi tiếng nhất thế giới. Vào ngày 3 tháng 4 năm 1973,
hội đồng này đã lựa chọn ký tự UPC của IBM như là mã chuẩn công nghiệp. Sự
thành công của hệ thống mã này đã tạo tiền đề thúc đẩy phát triển các mã
khác. George J.Laurer đã được công nhận là nhà phát minh mã U.P.C hay
Uniform Product Code.
Máy quét mã UPC đầu tiên:
Vào tháng 6 năm 1974, siêu thị Marsh của thành phố Troy của tiểu bang Ohio
đã lắp đặt máy quét mã UPC đầu tiên, và sản phẩm đầu tiên được quét trong
lịch sử mã vạch là thanh kẹo cao su Wrigley.